Nhu cầu của người tiêu dùng đối với thực phẩm tươi sống đang thay đổi ngành kho lạnh
08/01/2020 19:35
Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi rõ ràng và có tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng thực phẩm lạnh và kho lạnh.
Một báo cáo gần đây của công ty nghiên cứu Packaged Fact cho biết Thế hệ Z, là những người sinh từ năm 1995 đến 2010, được đặc trưng bởi thế hệ các hộ gia đình mà trong số đó từ 25% đến 29% có khả năng tiêu thụ bữa tối được hâm nóng từ lò vi sóng, 26% thích hợp ăn bữa sáng là các thực phẩm đông lạnh hoặc bánh mì kẹp; hơn 23% có nhiều khả năng ăn bữa tối là thực phẩm đông lạnh và nhiều hơn 10% [có khả năng] ăn bữa tối là các thực phẩm đóng gói khô, hỗn hợp. Một nhóm tương tự cũng có nhiều khả năng là người ăn chay, và chắc chắn có nhiều khả năng yêu cầu thực phẩm hữu cơ và lành mạnh.
Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi rõ ràng và có tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng thực phẩm lạnh và kho lạnh. Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu lưu trữ lạnh gia tăng và đòi hỏi năng lực cũng như công nghệ chuỗi lạnh phát triển hơn.
“Có ba yếu tố đang thúc đẩy nhu cầu chuỗi lạnh ngày nay”- Carl Fowler, SVP của bộ phận kinh doanh khu vực tại Americold cho biết. Trước tiên, nhu cầu của người tiêu dùng đối với thực phẩm tươi đang tăng lên. Thứ hai, các cửa hàng bán lẻ đang khám phá các kênh mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu đang mở rộng.
Ông nói thêm rằng, năm năm trước, người tiêu dùng không có nhiều yêu cầu lựa chọn về thực phẩm tươi và đông lạnh. Điều này đã thay đổi [một phần] với sự ra đời của truyền thông xã hội thúc đẩy xu hướng ăn uống lành mạnh. Kết quả là, thay vì 10 loại pizza đông lạnh, giờ đây có hàng tá loại pizza với các lựa chọn mới, tốt cho sức khỏe hơn.
Những nhu cầu thay đổi này của người tiêu dùng không chỉ diễn ra ở Hoa Kỳ.
Nhu cầu hải sản gia tăng trở nên phổ biến hơn trên khắp thế giới, do sự gia tăng dân số đáng kể ở Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil đang thúc đẩy ngành công nghiệp thủy hải sản đông lạnh. Mong muốn ngày càng tăng đối với hải sản và các thực phẩm khác đã dẫn đến sự gia tăng nhập khẩu và xuất khẩu giữa các quốc gia. Đổi lại, điều này đang thúc đẩy nhu cầu lưu trữ lạnh và vận chuyển lạnh hơn.
Heena Patel, giám đốc kỹ thuật an toàn thực phẩm cho SCS Global Services lưu ý thêm về các xu hướng khác nữa. Các lĩnh vực bán lẻ đã phát triển và gia tăng mối lo ngại về chất thải thực phẩm, thu hồi sản phẩm. Số lượng các sản phẩm bảo quản lạnh theo nhu cầu cũng tăng lên. Các sản phẩm hiện nay bao gồm từ món tráng miệng tươi hoặc đông lạnh, trái cây, rau quả và đồ uống, đến thịt, cá và hải sản. Các thực phẩm không được bảo quản và phân phối trong phạm vi nhiệt độ yêu cầu sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng và an toàn thực phẩm, vì vậy, làm lạnh và bảo quản lạnh là rất quan trọng.
Nick Pacitti của Tippmann Innovation xác nhận: “Chúng tôi thấy ngày càng nhiều chủ hàng thực phẩm, nhà phân phối và nhà cung cấp thực phẩm điện tử cần kho lạnh và trung tâm phân phối lạnh".
Những gì các công ty như Tippmann Innovation đang làm là tạo ra nhiều chỗ chứa hơn trong kho lạnh, thực sự thiết kế lại không gian thương mại hiện có thành bộ phận của kho lạnh bên trong được đặt trong các bức tường của các cơ sở hiện có này.
Pacitti cho biết nhu cầu đối với hàng lạnh và tươi đã tăng lên. Từ năm 2010 đến nay, dân số Hoa Kỳ đã tăng thêm 20 triệu người. Điều này đã gây áp lực lên cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ. Cũng cần có một chuỗi lạnh phân phối, trong đó vị trí của các trung tâm thực hiện đông lạnh gần hơn với các cụm nhu cầu để có thể giao hàng hiệu quả hơn và nhanh hơn trực tiếp đến người tiêu dùng.
Bên cạnh xu hướng mở rộng mạng lưới các cơ sở lưu trữ lạnh để có thể tiếp cận thị trường tiêu dùng , một xu hướng đáng chú ý khác là việc áp dụng các hệ thống và công nghệ Internet vạn vật (IoT) để cải thiện quy trình lưu trữ và làm lạnh.
Có nhiều công ty sử dụng các công cụ để theo dõi nhiệt độ tự động trong các xe tải đông lạnh hoặc tủ đông lạnh (tái sử dụng) được sử dụng để vận chuyển các sản phẩm thực phẩm, theo Patel. Cơ quan FDA của Hoa Kỳ cũng có các quy định cụ thể theo Đạo luật hiện đại hóa an toàn thực phẩm (FSMA) để duy trì nhiệt độ và khách hàng sử dụng dịch vụ xe tải vận chuyển đôi khi yêu cầu xác minh nhiệt độ và môi trường bên trong. Các nhà vận chuyển và nhà phân phối đang sử dụng các khả năng di động và Wi-Fi cho phép thiết bị kết nối thông qua dịch vụ di động khi cần thiết và thông qua mạng Wi-Fi hiện có của khách hàng có sẵn. Các thiết bị giám sát này hoạt động như một bộ ghi dữ liệu độ tin cậy chuỗi lạnh, đảm bảo giám sát và tuân thủ an toàn thực phẩm.
Áp lực đối với chuỗi cung ứng lạnh đang gia tăng
Trong khi đó, các nhà sản xuất thực phẩm, chủ hàng, nhà phân phối và nhà bán lẻ đang phải đối mặt với một số thách thức:
• Thực phẩm phải được giao trong điều kiện tươi, ngon và an toàn cho người tiêu dùng thưởng thức để họ duy trì ấn tượng tốt về thương hiệu công ty
• Thực phẩm được giao đúng hẹn và miễn phí theo yêu cầu của người tiêu dùng cho các khách hàng đã quen với dịch vụ, ví dụ khách quen của Amazon
• Nhiều hãng thực phẩm cung cấp cho người tiêu dùng tùy chọn, điều đó có nghĩa là những người trong chuỗi cung cấp thực phẩm lạnh phải kiểm soát được nhiều sản phẩm và điều kiện môi trường làm mát .
Một báo cáo gần đây của công ty nghiên cứu Packaged Fact cho biết Thế hệ Z, là những người sinh từ năm 1995 đến 2010, được đặc trưng bởi thế hệ các hộ gia đình mà trong số đó từ 25% đến 29% có khả năng tiêu thụ bữa tối được hâm nóng từ lò vi sóng, 26% thích hợp ăn bữa sáng là các thực phẩm đông lạnh hoặc bánh mì kẹp; hơn 23% có nhiều khả năng ăn bữa tối là thực phẩm đông lạnh và nhiều hơn 10% [có khả năng] ăn bữa tối là các thực phẩm đóng gói khô, hỗn hợp. Một nhóm tương tự cũng có nhiều khả năng là người ăn chay, và chắc chắn có nhiều khả năng yêu cầu thực phẩm hữu cơ và lành mạnh.
Thói quen ăn uống của người tiêu dùng đang thay đổi rõ ràng và có tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng thực phẩm lạnh và kho lạnh. Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu lưu trữ lạnh gia tăng và đòi hỏi năng lực cũng như công nghệ chuỗi lạnh phát triển hơn.
“Có ba yếu tố đang thúc đẩy nhu cầu chuỗi lạnh ngày nay”- Carl Fowler, SVP của bộ phận kinh doanh khu vực tại Americold cho biết. Trước tiên, nhu cầu của người tiêu dùng đối với thực phẩm tươi đang tăng lên. Thứ hai, các cửa hàng bán lẻ đang khám phá các kênh mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu đang mở rộng.
Ông nói thêm rằng, năm năm trước, người tiêu dùng không có nhiều yêu cầu lựa chọn về thực phẩm tươi và đông lạnh. Điều này đã thay đổi [một phần] với sự ra đời của truyền thông xã hội thúc đẩy xu hướng ăn uống lành mạnh. Kết quả là, thay vì 10 loại pizza đông lạnh, giờ đây có hàng tá loại pizza với các lựa chọn mới, tốt cho sức khỏe hơn.
Những nhu cầu thay đổi này của người tiêu dùng không chỉ diễn ra ở Hoa Kỳ.
Nhu cầu hải sản gia tăng trở nên phổ biến hơn trên khắp thế giới, do sự gia tăng dân số đáng kể ở Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil đang thúc đẩy ngành công nghiệp thủy hải sản đông lạnh. Mong muốn ngày càng tăng đối với hải sản và các thực phẩm khác đã dẫn đến sự gia tăng nhập khẩu và xuất khẩu giữa các quốc gia. Đổi lại, điều này đang thúc đẩy nhu cầu lưu trữ lạnh và vận chuyển lạnh hơn.
Heena Patel, giám đốc kỹ thuật an toàn thực phẩm cho SCS Global Services lưu ý thêm về các xu hướng khác nữa. Các lĩnh vực bán lẻ đã phát triển và gia tăng mối lo ngại về chất thải thực phẩm, thu hồi sản phẩm. Số lượng các sản phẩm bảo quản lạnh theo nhu cầu cũng tăng lên. Các sản phẩm hiện nay bao gồm từ món tráng miệng tươi hoặc đông lạnh, trái cây, rau quả và đồ uống, đến thịt, cá và hải sản. Các thực phẩm không được bảo quản và phân phối trong phạm vi nhiệt độ yêu cầu sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng và an toàn thực phẩm, vì vậy, làm lạnh và bảo quản lạnh là rất quan trọng.
Nick Pacitti của Tippmann Innovation xác nhận: “Chúng tôi thấy ngày càng nhiều chủ hàng thực phẩm, nhà phân phối và nhà cung cấp thực phẩm điện tử cần kho lạnh và trung tâm phân phối lạnh".
Những gì các công ty như Tippmann Innovation đang làm là tạo ra nhiều chỗ chứa hơn trong kho lạnh, thực sự thiết kế lại không gian thương mại hiện có thành bộ phận của kho lạnh bên trong được đặt trong các bức tường của các cơ sở hiện có này.
Pacitti cho biết nhu cầu đối với hàng lạnh và tươi đã tăng lên. Từ năm 2010 đến nay, dân số Hoa Kỳ đã tăng thêm 20 triệu người. Điều này đã gây áp lực lên cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ. Cũng cần có một chuỗi lạnh phân phối, trong đó vị trí của các trung tâm thực hiện đông lạnh gần hơn với các cụm nhu cầu để có thể giao hàng hiệu quả hơn và nhanh hơn trực tiếp đến người tiêu dùng.
Bên cạnh xu hướng mở rộng mạng lưới các cơ sở lưu trữ lạnh để có thể tiếp cận thị trường tiêu dùng , một xu hướng đáng chú ý khác là việc áp dụng các hệ thống và công nghệ Internet vạn vật (IoT) để cải thiện quy trình lưu trữ và làm lạnh.
Có nhiều công ty sử dụng các công cụ để theo dõi nhiệt độ tự động trong các xe tải đông lạnh hoặc tủ đông lạnh (tái sử dụng) được sử dụng để vận chuyển các sản phẩm thực phẩm, theo Patel. Cơ quan FDA của Hoa Kỳ cũng có các quy định cụ thể theo Đạo luật hiện đại hóa an toàn thực phẩm (FSMA) để duy trì nhiệt độ và khách hàng sử dụng dịch vụ xe tải vận chuyển đôi khi yêu cầu xác minh nhiệt độ và môi trường bên trong. Các nhà vận chuyển và nhà phân phối đang sử dụng các khả năng di động và Wi-Fi cho phép thiết bị kết nối thông qua dịch vụ di động khi cần thiết và thông qua mạng Wi-Fi hiện có của khách hàng có sẵn. Các thiết bị giám sát này hoạt động như một bộ ghi dữ liệu độ tin cậy chuỗi lạnh, đảm bảo giám sát và tuân thủ an toàn thực phẩm.
Áp lực đối với chuỗi cung ứng lạnh đang gia tăng
Trong khi đó, các nhà sản xuất thực phẩm, chủ hàng, nhà phân phối và nhà bán lẻ đang phải đối mặt với một số thách thức:
• Thực phẩm phải được giao trong điều kiện tươi, ngon và an toàn cho người tiêu dùng thưởng thức để họ duy trì ấn tượng tốt về thương hiệu công ty
• Thực phẩm được giao đúng hẹn và miễn phí theo yêu cầu của người tiêu dùng cho các khách hàng đã quen với dịch vụ, ví dụ khách quen của Amazon
• Nhiều hãng thực phẩm cung cấp cho người tiêu dùng tùy chọn, điều đó có nghĩa là những người trong chuỗi cung cấp thực phẩm lạnh phải kiểm soát được nhiều sản phẩm và điều kiện môi trường làm mát .
Thu hồi thịt bò là một ví dụ phổ biến. Vào tháng 4/2019, CDC đã công bố một ổ dịch E. coli mới lây nhiễm 109 người ở sáu tiểu bang, được cho là do thịt bò xay. Sự cố xảy ra sau khi bùng phát dịch E. coli xảy ra với rau diếp romaine vào tháng 1/2019. Thực phẩm thu hồi như thế này cũng như chi phí cho thực phẩm hư hỏng do làm lạnh không đủ có thể nhanh chóng khiến người tiêu dùng rời bỏ một thương hiệu thực phẩm hoặc cửa hàng bán lẻ.
An toàn thực phẩm và nhận thức về chất lượng trong ngành công nghiệp lưu trữ và vận chuyển về tầm quan trọng của việc bảo trì chuỗi lạnh từ cửa đến cửa có thể có tác động lớn, Patel nói. Các công ty vận tải và vận tải hàng hóa cần đào tạo lái xe của họ về việc duy trì tính toàn vẹn của sản phẩm và họ cần ý thức rõ rằng việc thiếu bảo trì chuỗi lạnh có thể ảnh hưởng đến chất lượng và an toàn sản phẩm.
Công nghệ có thể giúp gì không?
Trong năm năm qua, một loạt các công nghệ từ phần mềm chuỗi cung ứng dựa trên điện toán đám mây đến các thiết bị và cảm biến IoT cho đến các phân tích gần thời gian thực (real time analysis) đều đưa ra câu trả lời một phần để quản lý chuỗi lạnh và kho lạnh.
Những nỗ lực của các công ty đã tập trung vào việc đưa tất cả các công nghệ này lại với nhau thành các bộ giải pháp trình bày các giải pháp tổng thể, nhưng hoàn thiện các hệ thống này vẫn còn là một công việc đang tiến triển.
Chúng ta đang chứng kiến tự động hóa và chế tạo robot thay thế các quy trình thủ công tốn thời gian, tăng tốc độ di chuyển của thực phẩm thông qua chuỗi cung ứng quốc gia. Cơ sở mới nhất của Tippmann Innovation ở Rochelle, Illinois, có thể tự động xử lý các đơn đặt hàng quanh ngày mà không cần sự can thiệp của con người. Điều này không có nghĩa là tự động hóa sẽ thay thế sức lao động của con người, thay vào đó, thực hiện tự động hóa khi thích hợp và thực hiện công việc có giá trị cao hơn.
Nhu cầu về nhân sự có trình độ cao trong chuỗi cung ứng thực phẩm lạnh
Năm 2017, Hội đồng các chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng (CSCMP) ước tính rằng có một người đủ điều kiện cho mỗi sáu cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp chuỗi cung ứng; và năm 2018, dự báo, dự kiến ngành công nghiệp chuỗi cung ứng chỉ riêng ở Hoa Kỳ sẽ cần tuyển thêm 1,4 triệu lao động để đáp ứng nhu cầu mới.
Pacitti nói rằng thiếu hụt tài xế là một vấn đề lớn trong ngành hậu cần và đối với chuỗi lạnh. Người ta ước tính đến năm 2026 ở Hoa Kỳ sẽ thiếu 180.000 lái xe. Không ai muốn lái xe đường dài và các cơ sở lưu trữ lạnh sẽ phải được phân bố với mật độ dày hơn, ví dụ được đặt trong bán kính 500 dặm. Bán kính này đang thu hẹp hơn nữa, với các phạm vi nhỏ được thiết lập các thiết bị lưu trữ lạnh trong bán kính 250-300 dặm.
Thực hành tốt nhất (Best practices) đối với lĩnh vực kho lạnh
Do sự đa dạng và nhu cầu của người tiêu dùng đối với hàng hóa dễ hỏng ngày càng tăng, các nhà bán lẻ thực phẩm, nhà phân phối, nhà cung cấp dịch vụ hậu cần, nhà sản xuất và các nhà cung cấp dịch vụ kho lạnh và kho lạnh phải phát triển các chiến lược để đáp ứng thị trường thay đổi.
Pacitti cho biết người tiêu dùng muốn có nhiều sản phẩm hơn được giao cho họ thường xuyên hơn. Ngoài ra còn có xu hướng hướng tới thực phẩm đặc sản, và nhiều sản phẩm đang được nhập khẩu và xuất khẩu sang thị trường.
Đối với các công ty có nhu cầu chuỗi lạnh, cách thực hành tốt nhất nào sẽ giúp họ tận dụng tối đa chuỗi lạnh?
Fowler đưa ra lời khuyên: "Hãy nhìn vào chuỗi lạnh để đổi mới và truyền cảm hứng . Sau khi hợp tác với một công ty có chuyên môn về chuỗi lạnh mạnh, các công ty có thể sử dụng chuỗi lạnh như một phần của vòng đời sản phẩm (nghĩa là làm chín, bảo quản, loại bỏ chất thải). Trong một trường hợp, một khách hàng tận dụng hướng dẫn của chúng tôi về những cải tiến mới để giảm đáng kể 100% chất thải".
Ngoài ra còn có nhiều thực hành thông thường mà các công ty có thể áp dụng để định vị chuỗi lạnh của họ để thực hiện tối ưu hơn. Những thực hành này bao gồm bảo trì hệ thống lạnh và niêm phong cửa trong xe tải, Patel nói. Các công ty cũng có thể sử dụng các thiết bị theo dõi nhiệt độ liên tục trong xe tải của mình để đảm bảo duy trì nhiệt độ thích hợp. Cuối cùng, đảm bảo xe tải không quá tải để duy trì nhiệt độ ổn định và giữ cho lạnh hơn khi dỡ và tải sản phẩm.
"Điểm mấu chốt là nhiều người tiêu dùng muốn có thức ăn của họ ở gần thời gian thực, ngay lập tức, họ đã sẵn sàng trả tiền cho nó". Fowler nói. Những người mua sắm muốn nhấp vào một nút trên trang web và sau đó có người giao đồ ăn đến tận cửa nhà họ. Nhu cầu cụ thể này đang thúc đẩy các nhà sản xuất thực phẩm và nhà cung cấp kho lạnh tìm ra những cách mới để đưa sản phẩm ra thị trường nhanh hơn.
Một ví dụ là nhu cầu ngày càng tăng đối với thịt bò tươi ở châu Á. Một công ty ở Bắc Mỹ có thể giết mổ, làm lạnh nó trong một cơ sở phân phối gần sân bay, sau đó vận chuyển sản phẩm trong một container lạnh bằng đường hàng không để đáp ứng nhu cầu.
Fowler giải thích có một sự thay đổi xảy ra trong ngành công nghiệp lưu trữ lạnh và nó cũng ảnh hưởng đến các kỹ năng của lực lượng lao động cần thiết cho chuỗi lạnh. Sự thay đổi được thúc đẩy bởi hai yếu tố chính: SKU proliferation- tăng đơn vị lưu kho (SKU) và công nghệ. SKU proliferation có nghĩa là công nhân sử dụng phân tích dữ liệu để chọn và điền đơn đặt hàng, thường là trong thời gian thực. Dữ liệu lớn đang thay đổi cách chúng ta nhìn vào thực phẩm trong quy trình chuỗi cung ứng. Ví dụ: bây giờ chúng ta có thể theo dõi sản phẩm tươi và đông lạnh từ trang trại đến nhà bán lẻ.
Fowler cho biết, điều này đòi hỏi nhân viên kho phải được đào tạo về các công nghệ 3PL mới và xử lý thông tin. Đây là một sự thay đổi rõ rệt so với việc đơn giản hóa và di chuyển các sản phẩm xung quanh bằng cách sử dụng hóa đơn giấy.
Sự trỗi dậy của Refrigerated Box-in-a-Box
Ti-MCB được sử dụng nhiều hơn nhờ tính linh hoạt, tốc độ cài đặt và chi phí. Ti-MCB là một sự thay thế rất phù hợp cho việc xây dựng mới vì nó ít tốn kém hơn và nó có thể thực hiện ở bất kỳ phạm vi nhiệt độ nào.
Bộ xử lý cần thêm công suất làm lạnh có sẵn không gian xung quanh phù hợp thường quyết định lắp đặt hộp trong hộp (box in box). Những cài đặt này đòi hỏi ít công việc chuẩn bị trước và có thể được đưa vào theo từng giai đoạn hoặc gia tăng khi người dùng cần.
Một trong những trình điều khiển chính cho việc cài đặt box-in-a-box là hoàn vốn đầu tư. Từ kinh nghiệm, việc lắp đặt hộp trong hộp với nhiệt độ khoảng 30 độ C rẻ hơn so với chi phí xây dựng kho lạnh mới. Chủ nhà kho nhận thấy những nâng cấp cài đặt này rất hấp dẫn khi chúng làm tăng giá trị tài sản.
VITIC biên dịch từ https://www.foodlogistics.com/3pl-4pl/article/21074105/consumer-demands-for-fresh-foods-are-transforming-cold-storage