Thiết lập hệ sinh thái logistics chuỗi lạnh
24/06/2023 06:32
Cần có thể chế và chính sách thiết lập hệ sinh thái logistics chuỗi lạnh gồm sản xuất, chế biến và thương mại
Tọa đàm “Nâng cao chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu - gắn kết hiệu quả với hệ thống Logistics" do Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI) Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO), Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) và Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) phối hợp tổ chức ngày 23/6/2023.
Tọa đàm “Nâng cao chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu - gắn kết hiệu quả với hệ thống Logistics" do Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI) Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO), Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) và Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) phối hợp tổ chức ngày 23/6/2023.
Khai mạc Toạ đàm “Nâng cao chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu – gắn kết hiệu quả với hệ thống logistics” ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) nhấn mạnh Quyết định số 221/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 đã khẳng định lại mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt 5% - 6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15% - 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% - 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% - 20% GDP, xếp hạng theo Chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 50 trở lên.
Để đạt được các mục tiêu này, Quyết định cũng đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và những giải pháp tổng thể trong đó có Nhiệm vụ số 34 có chỉ rõ việc phải “Tích hợp sâu dịch vụ logistics với các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hóa trong nước và các ngành dịch vụ khác”.
Nông sản xuất khẩu là một trong những ngành hàng quan trọng, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và yêu cầu nâng cao năng lực chuỗi giá trị:
Theo báo cáo “Chuyển đổi nông nghiệp xanh của Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố năm 2022, bên cạnh những giải pháp về xúc tiến thương mại, marketing, quảng bá tiếp cận thị trường quốc tế, thì hệ thống logistics và lưu trữ bảo quản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chuỗi giá trị hàng nông sản Việt Nam.
Chủ tịch VLA cho biết, năm 2023, giống như các ngành nghề kinh doanh khác, bối cảnh tình hình thế giới có nhiều tác động ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Đó là lạm phát tiếp tục tăng cao ở Mỹ, Châu Âu và nhiều nước trên thế giới, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, an ninh lương thực, lạm phát…Giá xăng dầu tiếp tục được dự báo diễn biến phức tạp do những biến động của các yếu tố chính trị và kinh tế.
Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu xuất hiện nhiều các rào cản thương mại mới như: EU điều chỉnh các biện pháp kiểm dịch, kiểm soát an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu vào ngày 26/1/2023, các khu vực thị trường thuộc hiệp định CPTPP, UKVFTA đưa ra những sự điều chỉnh quan trọng trong quy định về hàng hóa nhập khẩu…
Nêu thực tế, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T kiêm Phó chủ tịch Vinafruit cho biết, chi phí logistics nông sản tại Việt Nam đang chiếm 20-25% giá trị hàng hóa, trong khi đó các nước như Thái Lan chỉ chiếm 12% hay thế giới 14%.
Ông Nguyễn Thanh Bình – Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit).
“Nông sản của thị trường nước khác có thể không hơn về chất lượng nhưng họ hơn về giá thành. Chỉ riêng chi phí logitstic thôi thì giá thành sản phẩm Việt đã hơn các thị trường khác mười mấy %, như vậy thì chúng ta khó có thể cạnh tranh”, theo ông Tùng.
Bà Nguyễn Tú Uyên, Giám đốc công ty Logistics CMU so sánh với nước bạn trong khu vực là Thái Lan, giá cước vận tải từ Bangkok đến thị trường quốc tế thấp hơn so với từ Hà Nội hay TP HCM ít nhất từ 1-2 USD/kg.
Trong khi đó, cơ sở hạ tầng trong nước lại chưa được đảm bảo. Hiện nay, hệ thống kho bãi tại Việt Nam còn manh mún, cơ sở chế biến nông sản, chuỗi kho mát, kho lạnh phục vụ còn thiếu.
Riêng xuất khẩu trái cây phải trải qua nhiều công đoạn nhưng cơ sở hạ tầng chưa phát triển đồng bộ, kết nối khiến thời gian chuẩn bị và chi phí vận chuyển tăng cao, ảnh hưởng đến giá thành và chất lượng sản phẩm.
"Với mùa vải hiện nay, để xuất khẩu vải đi thị trường Mỹ lại đang thiếu nhà máy chiếu xạ ở khu vực phía Bắc, do đó phải chuyển vải từ Bắc Giang, Thanh Hà - Hải Dương bay vào TP HCM chiếu xạ, sau đó mới trở hàng xuất khẩu đi Mỹ. Chúng tôi cũng đang hỗ trợ 1 số doanh nghiệp thực hiện quy trình này nhưng thấy rất tốn kém và khó khăn”, bà Tú Uyên nêu thực tế.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) nhận định, hạ tầng cơ cở sản xuất, chế biến, bảo quản tại Việt Nam còn yếu khiến tình trạng hao hụt ở mức cao. “Đúng ra, rau quả phải có những kho riêng, phương tiện vận chuyển riêng nhưng chúng ta vẫn chưa có, vẫn thực hiện cùng với các loại nông sản khác. Chính vì vậy, hao hụt, tổn thất sau thu hoạch rất cao, tới khoảng 30-35%”, theo ông Bình.
Từ thực tế này, Giám đốc CMU Logistics đề xuất cần có quy hoạch xây dựng các trung tâm logistics nông sản, trong đó có kho mát để phân loại, bảo quản, sơ chế giúp nâng cao chất lượng và ổn định giá thành.
Đồng thời tăng cường đầu tư hạ tầng logistics cho hàng hoá nông sản, nhất là các vùng nông sản tập trung, chủ lực. Kết nối đường thuỷ - đường bộ - đường sắt phát huy sức mạnh tổng thể logistics nội địa.
Với vai trò kiến tạo của Chính phủ, Giám đốc CMU Logistics kiến nghị Chính phủ cần quan tâm đẩy mạnh hơn nữa đầu tư cơ sở hạ tầng vận tải đường bộ kết nối từ các vùng nguyên liệu khu vực ĐBSCL để người nông dân, HTX có cơ hội đưa sản phẩm nông nghiệp đến các thị trường xuất khẩu với chất lượng tốt nhất.
Đồng quan điểm, PGS.TS Hồ Thị Thu Hoà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI) cũng cho rằng cần có thể chế và chính sách thiết lập hệ sinh thái logistics chuỗi lạnh gồm sản xuất, chế biến và thương mại.
Quy hoạch đất cho các trung tâm, cụm logistics và trung tâm chế biến sau thu hoạch. Hoàn thiện thể chế, đặc biệt là khung pháp lý, liên quan đến liên kết vùng, cải thiện kết nối khu vực.
Đồng thời, Viện trưởng VLI kiến nghị cần phát triển nguồn nhân lực logistics cho chuỗi lạnh, phát triển nền tảng điện tử cho logistics chuỗi lạnh như bản đồ chuỗi lạnh, chia sẻ dữ liệu và cơ sở hạ tầng. Tăng cường vai trò của hợp tác công tư.
Đặc biệt, PGS.TS Hồ Thị Thu Hoà đề xuất phát triển mô hình liên kết 2 nhà với 2 Hiệp hội là VLA và Vinafruit. Phát triển mô hình liên kết 4 nhà gồm VLA, Vinafruit, UNIDO và VLI.
“Cần liên kết các đơn vị tạo chuỗi dịch vụ logistics tích hợp đối với hàng nông sản xuất khẩu giúp khách hàng giảm chi phí, thời gian. Liên kết ngang với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nhằm phát triển mạng lưới”, Viện trưởng VLI đề xuất.
THAM KHẢO THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG LOGISTICS CHUỖI LẠNH VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI, MỚI NHẤT TẠI ĐÂY
Để đạt được các mục tiêu này, Quyết định cũng đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và những giải pháp tổng thể trong đó có Nhiệm vụ số 34 có chỉ rõ việc phải “Tích hợp sâu dịch vụ logistics với các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hóa trong nước và các ngành dịch vụ khác”.
Nông sản xuất khẩu là một trong những ngành hàng quan trọng, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và yêu cầu nâng cao năng lực chuỗi giá trị:
Theo báo cáo “Chuyển đổi nông nghiệp xanh của Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố năm 2022, bên cạnh những giải pháp về xúc tiến thương mại, marketing, quảng bá tiếp cận thị trường quốc tế, thì hệ thống logistics và lưu trữ bảo quản đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chuỗi giá trị hàng nông sản Việt Nam.
Chủ tịch VLA cho biết, năm 2023, giống như các ngành nghề kinh doanh khác, bối cảnh tình hình thế giới có nhiều tác động ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Đó là lạm phát tiếp tục tăng cao ở Mỹ, Châu Âu và nhiều nước trên thế giới, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, an ninh lương thực, lạm phát…Giá xăng dầu tiếp tục được dự báo diễn biến phức tạp do những biến động của các yếu tố chính trị và kinh tế.
Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu xuất hiện nhiều các rào cản thương mại mới như: EU điều chỉnh các biện pháp kiểm dịch, kiểm soát an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu vào ngày 26/1/2023, các khu vực thị trường thuộc hiệp định CPTPP, UKVFTA đưa ra những sự điều chỉnh quan trọng trong quy định về hàng hóa nhập khẩu…
Nêu thực tế, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T kiêm Phó chủ tịch Vinafruit cho biết, chi phí logistics nông sản tại Việt Nam đang chiếm 20-25% giá trị hàng hóa, trong khi đó các nước như Thái Lan chỉ chiếm 12% hay thế giới 14%.
Ông Nguyễn Thanh Bình – Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit).
“Nông sản của thị trường nước khác có thể không hơn về chất lượng nhưng họ hơn về giá thành. Chỉ riêng chi phí logitstic thôi thì giá thành sản phẩm Việt đã hơn các thị trường khác mười mấy %, như vậy thì chúng ta khó có thể cạnh tranh”, theo ông Tùng.
Bà Nguyễn Tú Uyên, Giám đốc công ty Logistics CMU so sánh với nước bạn trong khu vực là Thái Lan, giá cước vận tải từ Bangkok đến thị trường quốc tế thấp hơn so với từ Hà Nội hay TP HCM ít nhất từ 1-2 USD/kg.
Trong khi đó, cơ sở hạ tầng trong nước lại chưa được đảm bảo. Hiện nay, hệ thống kho bãi tại Việt Nam còn manh mún, cơ sở chế biến nông sản, chuỗi kho mát, kho lạnh phục vụ còn thiếu.
Riêng xuất khẩu trái cây phải trải qua nhiều công đoạn nhưng cơ sở hạ tầng chưa phát triển đồng bộ, kết nối khiến thời gian chuẩn bị và chi phí vận chuyển tăng cao, ảnh hưởng đến giá thành và chất lượng sản phẩm.
"Với mùa vải hiện nay, để xuất khẩu vải đi thị trường Mỹ lại đang thiếu nhà máy chiếu xạ ở khu vực phía Bắc, do đó phải chuyển vải từ Bắc Giang, Thanh Hà - Hải Dương bay vào TP HCM chiếu xạ, sau đó mới trở hàng xuất khẩu đi Mỹ. Chúng tôi cũng đang hỗ trợ 1 số doanh nghiệp thực hiện quy trình này nhưng thấy rất tốn kém và khó khăn”, bà Tú Uyên nêu thực tế.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) nhận định, hạ tầng cơ cở sản xuất, chế biến, bảo quản tại Việt Nam còn yếu khiến tình trạng hao hụt ở mức cao. “Đúng ra, rau quả phải có những kho riêng, phương tiện vận chuyển riêng nhưng chúng ta vẫn chưa có, vẫn thực hiện cùng với các loại nông sản khác. Chính vì vậy, hao hụt, tổn thất sau thu hoạch rất cao, tới khoảng 30-35%”, theo ông Bình.
Từ thực tế này, Giám đốc CMU Logistics đề xuất cần có quy hoạch xây dựng các trung tâm logistics nông sản, trong đó có kho mát để phân loại, bảo quản, sơ chế giúp nâng cao chất lượng và ổn định giá thành.
Đồng thời tăng cường đầu tư hạ tầng logistics cho hàng hoá nông sản, nhất là các vùng nông sản tập trung, chủ lực. Kết nối đường thuỷ - đường bộ - đường sắt phát huy sức mạnh tổng thể logistics nội địa.
Với vai trò kiến tạo của Chính phủ, Giám đốc CMU Logistics kiến nghị Chính phủ cần quan tâm đẩy mạnh hơn nữa đầu tư cơ sở hạ tầng vận tải đường bộ kết nối từ các vùng nguyên liệu khu vực ĐBSCL để người nông dân, HTX có cơ hội đưa sản phẩm nông nghiệp đến các thị trường xuất khẩu với chất lượng tốt nhất.
Đồng quan điểm, PGS.TS Hồ Thị Thu Hoà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI) cũng cho rằng cần có thể chế và chính sách thiết lập hệ sinh thái logistics chuỗi lạnh gồm sản xuất, chế biến và thương mại.
Quy hoạch đất cho các trung tâm, cụm logistics và trung tâm chế biến sau thu hoạch. Hoàn thiện thể chế, đặc biệt là khung pháp lý, liên quan đến liên kết vùng, cải thiện kết nối khu vực.
Đồng thời, Viện trưởng VLI kiến nghị cần phát triển nguồn nhân lực logistics cho chuỗi lạnh, phát triển nền tảng điện tử cho logistics chuỗi lạnh như bản đồ chuỗi lạnh, chia sẻ dữ liệu và cơ sở hạ tầng. Tăng cường vai trò của hợp tác công tư.
Đặc biệt, PGS.TS Hồ Thị Thu Hoà đề xuất phát triển mô hình liên kết 2 nhà với 2 Hiệp hội là VLA và Vinafruit. Phát triển mô hình liên kết 4 nhà gồm VLA, Vinafruit, UNIDO và VLI.
“Cần liên kết các đơn vị tạo chuỗi dịch vụ logistics tích hợp đối với hàng nông sản xuất khẩu giúp khách hàng giảm chi phí, thời gian. Liên kết ngang với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nhằm phát triển mạng lưới”, Viện trưởng VLI đề xuất.
THAM KHẢO THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG LOGISTICS CHUỖI LẠNH VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI, MỚI NHẤT TẠI ĐÂY